

Nghiên cứu lâm sàng
Tài liệu nghiên cứu khác
- Nghiên cứu: L-Carnitine và L-acetylcarnitine đối với các thông số tinh trùng ở nam giới mắc chứng ít tinh trùng vô căn (Proxeed Plus) Tác giả: Gian Maria Busetto, Ashok Agarwal, v.v
- Nghiên cứu: Khảo sát toàn cầu của các chuyên gia sinh sản để xác định lợi ích của việc chẩn đoán lâm sàng đối với tác động của quá trình oxy hóa và việc sử dụng chất chống oxy hóa trong điều trị vô sinh nam. Nguồn: Tạp chí sức khoẻ Nam giới toàn cầu.
- Nghiên cứu: Vai trò Carnitines trong vô sinh nam. Tác giả: Ashok Agarwal
- Nghiên cứu: Vai trò của chất chống oxy hóa trong điều trị của nam giới vô sinh. Tác giá: Ashok Agarwal


Nghiên cứu lâm sàng Proxeed Plus
Các thành phần chính của Proxeed Plus, L-carnitin và Acetyl-L-carnitin, đã cho thấy trong nhiều thử nghiệm lâm sàng có hiệu quả trong việc hỗ trợ chất lượng tinh trùng qua việc làm tăng số lượng, tinh chuyển động, và chuyển động tiến tới tuyến tính của tinh trùng.
Việc phân biệt giữa nồng độ và số lượng tinh trùng là quan trọng. Các nghiên cứu này được thực hiện trên các nam giới vô sinh, với các thông số về tinh dịch được đánh giá cả trước và sau khi hoàn thành việc bổ sung với L-carnitn hoặc acetyl-L-carnitn.
Hầu hết các liều cho những bệnh nhân nghiên cứu này là 3 gam mỗi ngày. Vitali và các cộng sự đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam 1 ngày dùng trong 3 tháng ở 47 nam giới vô sinh đã được chẩn đoán bị yếu tinh trùng tự phát trong thời gian ít nhất 2 năm. Các kết quả của nghiên cứu này có thể xem trong Bảng 4.1.
Về cơ bản, sự bổ sung L-carnitin có tác dụng đang kể trong việc làm tăng tất cả các thông số được đánh giá: số lượng tinh trùng, tinh chuyển động, và chuyển động tuyến tinh nhanh. L-carnitin được dung nạp rất tốt.
Một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (Costa, 1994) đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam mỗi ngày trong 4 tháng ở 100 bệnh nhân nam bị yếu tinh trùng tự phát. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định tác dụng của việc bổ sung dài hạn L-carnitin trên tinh chuyển động của tinh trùng. Các kết quả của nghiên cứu này được ghi trong Bảng 4.2. Sự phân tích dữ liệu được thực hiện ở thời điểm bắt đầu điều trị (T0), sau 2 tháng (T + 2), và 4 tháng điều trị (T + 4), và 2 tháng sau khi kết thúc điều trị (T + 6). Kết quả lại cho thấy rõ ràng hiệu quả của L-carnitin trên các thông số về tính chuyển động của tinh trùng.
Một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (Costa, 1994) đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam mỗi ngày trong 4 tháng ở 100 bệnh nhân nam bị yếu tinh trùng tự phát. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định tác dụng của việc bổ sung dài hạn L-carnitin trên tinh chuyển động của tinh trùng. Các kết quả của nghiên cứu này được ghi trong Bảng 4.2. Sự phân tích dữ liệu được thực hiện ở thời điểm bắt đầu điều trị (T0), sau 2 tháng (T + 2), và 4 tháng điều trị (T + 4), và 2 tháng sau khi kết thúc điều trị (T + 6). Kết quả lại cho thấy rõ ràng hiệu quả của L-carnitin trên các thông số về tính chuyển động của tinh trùng.
Bởi vì Acetyl-L-Carnitin là dạng nổi bật của L-Carnitin trong tinh trùng, Moncada và các cộng sự (1992) đã thực hiện một nghiên cứu để điều tra hiệu quả lâm sàng của một mình Acetyl-L-Carnitin trên chất lượng tinh trùng của 20 bệnh nhân, tất cả đã được chẩn đoán trước đây về tình trạng ít tinh trùng tự phát theo tiêu chuẩn của WHO. Người ta đã thấy có một sự tăng đáng kể ở giá trị trung bình về phần trăm tinh trùng có chuyển động tiến tới tuyến tính nhanh so với vạch chuẩn sau 2 tháng bổ sung.
Hơn nữa, Acetyl-L-Carnitin cải thiện chuyển động tến tới của tinh trùng ở 75% bệnh nhân và sự tăng này được duy trì kéo dài ở 12/20 bệnh nhân, với giá trị tăng trung bình gấp 2,7 lần. 35% bệnh nhân có đối tác nữ đạt được sự mang thai. Sau khi ngưng dùng Acetyl-L-carnitin, các thông số tinh dịch trở về mức độ ở vạch chuẩn. 35% bệnh nhân có đối tác nữ đạt được sự mang thai. Sau khi ngưng dùng Acetyl-L-Carnitin, các thông số tinh dịch trở về mức độ ở vạch chuẩn.
Một cách tổng quát, cả L-Carnitin và Acetyl-L-Carnitin dùng theo đường uống đã cho thấy khả năng cải thiện chất lượng tinh trùng ở các khía cạnh về tính chuyển động, chuyển động tiến tới tuyến tính, và số lượng tinh trùng. Ngoài ra, mặc dù tất cả những bệnh nhân nam đã được chẩn đoán với tiền sử vô sinh tự phát khi bắt đầu thử nghiệm lâm sàng, nhiều đối tác của họ đã có thể đạt được sự mang thai.
Mặt khác, trong một nghiên cứu thứ 3, Cavallini và các cộng sự đã đánh giá 325 nam giới khỏe mạnh bị ít tinh trùng tự phát hoặc do giãn mạch tinh hoàn được lựa chọn ngẫu nhiên vào một sự điều trị 6 tháng cộng với 3 tháng theo dõi ở 3 nhóm khác nhau.
- Nhóm đầu tiên sử dụng 1 viên tinh bột 2 lần/ ngày và một viên thuốc đặt glycerin mỗi 4 ngày.
- Nhóm thứ 2 dùng L-carnitin theo đường uống 2 g/ngày, acetyl-L-carnitin 500 mg theo đường uống 2 lần/ngày và một viên thuốc đặt glycerin mỗi 4 ngày.
- Nhóm thứ 3 sử dụng L-carnitin/acetyl-L-carnitin và 1 viên thuốc đặt cinnoxicam 30-mg mỗi 4 ngày.
Sau 3 và 6 tháng, nhóm 1 cho thấy không có dự thay đổi về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng, trong khi nhóm 2 và 3 tăng đáng kể về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng ở cả 3 tháng và 6 tháng, không thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các dữ liệu của 3 và 6 tháng trong mỗi nhóm điều trị.
(Bảng 4.3) Trong thời gian điều trị, tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng của nhóm 3 cao rõ rệt hơn các giá trị tương ứng của nhóm 2. Ba tháng sau khi ngưng thuốc, các dữ liệu về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng trở về vạch chuẩn.
(Bảng 4.3) Trong thời gian điều trị, tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng của nhóm 3 cao rõ rệt hơn các giá trị tương ứng của nhóm 2. Ba tháng sau khi ngưng thuốc, các dữ liệu về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng trở về vạch chuẩn.
Tỷ lệ phần trăm tích lũy các trường hợp mang thai tự nhiên trước, trong khi, và sau điều trị được trình bày trong Bảng 4.1. Kết thúc thời gian theo dõi, nhóm 2 có tỷ lệ mang thai cao hơn rõ rệt so với nhóm 1 (p<0.,1), và nhóm 3 có tỷ lệ mang thai tăng đáng kể so với nhóm 2 (p<0,05). Tỷ lệ mang thai mỗi hai tháng là 0,3% ở nhóm 1, 3,6% ở nhóm 2, ở 6,3% ở nhóm 3.
Trong một thử nghiệm trong ống nghiệm trên tinh trùng của người (Williams A.C., 2001) việc ủ với 5,56 mmol L-1 dẫn đến một sự tăng đáng kể sự sản xuất ATP và tăng phần trăm tinh trùng chuyển động, với sự cải thiện rõ rệt trong tốc độ của quá trình, phần trăm tinh trùng chuyển động nhanh và trong tốc độ của chuyển động tiến về phía trước.
Tác dụng được duy trì kéo dài 1 giờ và sau khi ủ qua đêm thì vẫn còn hơi cao hơn mẫu kiểm soát, dù không đáng kể.
Các bệnh nhân được bổ sung Proxeed Plus một lần một ngày trong 4 tháng. Các mục tiêu chính là tỷ lệ chuyển động tiến tới và các dạng bình thường về mặt hình thái học của tinh trùng. Các mục tiêu phụ là giá trị tăng trung bình về mật độ tinh trùng và tỷ lệ mang thai trong thời gian bổ sung. Trong số 114 bệnh nhân đăng ký, 96 người đã hoàn thành thời gian nghiên cứu.
Ở vạch chuẩn, chuyển động tiến tới trung bình là 18,3 ± 3,8 và được cải thiện lên 42,1 ± 5,5 sau bổ sung (p < 0,05 – Hình 4.4).
Tỷ lệ các dạng bình thường về mặt hình thái học tăng từ 32,8% lên 38,4%, cho dù là sự tăng này không đáng kể về mặt thống kê. Trong thời gian điều trị, 17 bệnh nhân (15%) đã đạt được sự mang thai tự phát.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng việc bổ sung carnitin, fructose và nhiều chất khác có thể góp phần vào quá trình điều tiết và tối ưu hóa chức năng tinh trùng. Kết quả của nghiên cứu mở, triển vọng này cho thấy rằng xu hướng chuyển hóa với Proxeed Plus thực sự có thể hữu ích trong kiểm soát vô sinh ở nam giới.
Trong một thử nghiệm, tác dụng của việc bổ sung kẽm trên testosterone, dihydrotestosteron, và số lượng tinh trùng đã được nghiên cứu. 37 bệnh nhân bị vô sinh tự phát với thời gian hơn 5 năm và có số lượng tinh trùng giảm được cho sử dụng kẽm nguyên tố 24 mg từ sulphat kẽm trong 45-50 ngày Kết quả rất đáng chú ý ở 22 đối tượng có nồng độ testosteron ban đầu thấp: một sự tăng đáng kể trong nồng độ testosteron và số lượng tinh trùng (từ 8 đến 20 triệu/ml) đã được ghi nhận, cùng với 9 trường hợp có kết quả mang thai.
Một nghiên cứu nhỏ hơn đã cho thấy rằng sự bổ sung kẽm trong 4 tháng đã làm tăng đáng kể nồng độ kẽm trong tinh dịch, và cùng lúc, tăng tính chuyển động và số lượng tinh trùng và số lượng tế bào tinh trùng bình thường, mặc dù nó không làm thay đổi nồng độ kẽm trong huyết tương (Sinclair, 2000). Các phát hiện này cũng được thấy khi bổ sung kết hợp kẽm và folat (Wong, 2000).
Tác dụng tích cực của vitamin C trên khả năng sinh sản của nam giới, đặc biệt ở những người hút thuốc, cũng đã được biết rất rõ. Trong một nghiên cứu ở những người hút thuốc nhiều, 75 nam giới được chia thành 3 nhóm bổ sung; một nhóm được cho dùng giả dược, các nhóm khác được cho sử dụng 200 mg hay 1000 mg axít ascorbic.
Trong khi nhóm dùng giả dược không thấy có sự cải thiện nào, nhóm axít ascorbic cho thấy có sự cải thiện rõ rệt về chất lượng tinh trùng, với sự cải thiện nhiều nhất xảy ra ở nhóm 1000 mg. Trong một nghiên cứu khác, việc bổ sung vitamin C (200 đến 1000 mg/ngày trong 2 tháng) làm tăng số lượng tinh trùng từ 112 – 140%, dẫn đến mang thai thành công đối với tất cả các bệnh nhân được điều trị (Sinclair, 2000).
Một thử nghiệm lâm sàng trên 69 nam giới vô sinh người Scotland đã đánh giá tác dụng của việc bổ sung selen trên các thông số của tinh dịch. Khi kết thúc thử nghiệm, cả 2 nhóm điều trị với selen đã có những cải thiện đáng kể về chuyển động tinh trùng, mặc dù mật độ tinh trùng không bị ảnh hưởng (Sinclair, 2000).
Tác dụng của hoạt động chống oxy hóa của Coenzym Q10 trên các thông số tinh dịch, dữ liệu về nội tiết tố sinh dục và chức năng tinh trùng gần đây đã được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên trên 212 nam giới vô sinh do yếu và ít tinh trùng tự phát, các bệnh nhân này được chỉ định ngẫu nhiên để sử dụng 300 mg coenzym Q10 theo đường uống hàng ngày (106 ở nhóm 1) hoặc một mẫu giả dược tương tự (106 ở nhóm 2) trong thời gian 26 tuần, tiếp theo đó là giai đoạn không điều trị 30 tuần.
Đã có bằng chứng cho thấy sự cải thiện đáng kể về mật độ và tính chuyển động tinh trùng khi điều trị với coenzym Q10 (p=0,01 cho mỗi yếu tố). Sự đánh giá về hình thái học đã cho thấy sự tăng về phần trăm tế bào tinh trùng bình thường ở nhóm Coenzym Q10 (p = 0.07).
Nhóm Coenzym Q10 có sự giảm đáng kể về nồng độ nội tết tố kích thích nang (FSH) và nội tiết tố thể vàng trong huyết thanh ở giai đoạn điều trị 26 tuần (p = 0,03 cho mỗi yếu tố). Ở cuối giai đoạn điều trị, phản ứng acrosom trung bình đã tăng từ 14% và 15% đến 31% và 16% ở các nhóm Coenzym Q10 giả dược tương ứng (p = 0,01) (Hình 4.2) (Safarinejad, 2009).
Cuối cùng, việc bổ sung Vitamin B12 đã được chứng minh có ảnh hưởng lớn trên chất lượng tinh dịch. Trong một nghiên cứu lâm sàng, vitamin B12 , 1.500 mcg/ngày được cho 26 nam giới vô sinh trong thời gian 4-24 tuần. Sự phân tích tinh trùng được thực hiện 8 tuần sau khi bắt đầu nghiên cứu. Nồng độ tinh trùng tăng trong 38,4% trường hợp và tổng số lượng tinh trùng tăng ở 53,8% nam giới. Tính chuyển động của tinh trùng tăng ở 50% người tham gia (Sinclair, 2000).
Một nghiên cứu xa hơn hỗ trợ bằng chứng này cho thấy một sự tương quan rõ rệt giữa nồng độ vitamin B12 trong tinh dịch và nồng độ tnh trùng ở 73 nam giới thuộc các cặp đôi thực hiện các quá trình thụ tinh có hỗ trợ (Hình 4.3) (Boxmeer, 2007).

Nghiên cứu lâm sàng Proxeed Women
Proxeed Women bổ sung chất dinh dưỡng chứa L-carnitin, Acetyl-L-Carnitin, các Vitamin và khoáng chất được nghiên cứu chuyên biệt để hỗ trợ chất lượng trứng và các quá trình sinh lý liên quan đến khả năng sinh sản của phụ nữ.
Các hợp chất chuyển hoá, các chất chống oxy hoá và các vi chất dinh dưỡng có trong công thức sản phẩm giúp làm giảm tác động của các gốc tự do được hình thành trong các quá trình chuyển hoá của tế bào và được kích thích tăng cao trong các điều kiện môi trường và các điều kiện có tính áp lực có thể gây tổn thương đến các cơ quan sinh sản, trứng và các quá trình sinh lý chung của cơ thể liên quan đến các quá trình sinh sản.
L-carnitin là 1 hợp chất thiết yếu của các quá trình chuyển hoá đối với sự sống của tế bào, vì nó hoàn toàn cần thiết cho việc vận chuyển các axít béo chuỗi dài qua màng trong ty thể để sử dụng cho quá trình chuyển hoá và sản xuất năng lượng của tất cả tế bào trong cơ thể. L-carnitn được tìm thấy trong tất cả các tế bào và đóng vai trò chủ yếu trong chuyển hoá năng lượng, cũng như các chức năng quan trọng khác của tế bào. (Binienda và Virmani, 2003, Virmani và Binienda, 2004)
Về chi tiết, L-carnitin có tác dụng bảo vệ chống lại các chất có hại có mặt trong dịch màng bụng của những phụ nữ mặc bệnh lạc nội mạc tử cung, là những chất có thể ảnh hưởng đến cấu trúc tế bào trứng và sự hình thành phôi thai. (Mansour 2008).
Vai trò của quá trình bêta oxy hoá và L-carnitin trong khả năng phát triển của tế bào trứng đã được xác nhận bởi Dunning và các cộng sự (2010) trong 1 nghiên cứu trên chuột. Bằng chứng chính của nghiên cứu này là sự ức chế quá trình bêta oxy hoá trong suốt quá trình trưởng thành của tế bào trứng hay sự phân tách hợp tử, sự phát triển phôi nang tếp theo bị suy yếu, trong khi sự bổ sung L-carnitin trong suốt quá trình trưởng thành của trứng làm tăng rõ rệt quá trình bêta oxy hoá và cải thiện khả năng phát triển.
Vì vậy, Carnitin là 1 cofactor quan trọng đối việc phát triển trứng, và các axít béo là một nguồn năng lượng quan trọng đối với trứng và sự phát triển phôi thai. Hơn nữa, L-carnitin có thể ổn định hoá trục sinh dục-tuyến yên-vùng dưới đồi và bảo vệ các tế bào mô như buồng trứng. (Virmani A., Angeli a., 2013)
Các Carnitin cần thiết cho quá trình oxy hoá trong ty thể của các axít béo và đóng vai trò quan trọng trong nguồn cung cấp năng lượng của tế bào trứng và phôi thai và sự rối loạn chuyển hoá carnitin có thể làm suy yếu khả năng sinh sản ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm. (Varnagy 2013)
Acetyl-L-Carnitin là este acetyl của L-Carnitin (Virmani và Binienda, 2004). Acetyl-L-Carnitin là dạng nổi bật nhất của carnitin và quan trọng trong chức năng của ty thể và đã cho thấy tác động tích cực trên trục nội tiết thần kinh trong các điều kiện thực nghiệm kích thích stress sáng-tối trong những thực nghiệm tiền lâm sàng. (Virmani 1991)
Acetyl-L-carnitin đã cho thấy khả năng bảo vệ chức năng ty thể chống lại những chất độc từ các quá trình chuyển hoá (Virmani 1995), ổn định hoá màng cũng như các tinh chất chống oxy hoá, dẫn đến kết quả bảo vệ tế bào và các tác dụng chống hoại tử tế bào (Virmani và Binienda, 2004). Các đặc tính tổng quát này cũng có thể bảo vệ buồng trứng và vì vậy làm tăng chất lượng tế bào trứng cũng như các mô sinh sản khác như biểu mô của ống dẫn trứng và tử cung.
Để kết luận, Acetyl-L-Carnitin và L-Carnitin đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất năng lượng tế bào cũng như bảo vệ tính toàn vẹn của tế bào. Các bằng chứng đã có đề nghị rằng 2 dạng Carnitin này là quan trọng đối với việc duy trì chất lượng trứng, hỗ trợ chu trình nội tiết tố bình thường, và cung cấp năng lượng để duy trì mô cổ tử cung, tử cung và buồng trứng khoẻ mạnh.
N-Acetyl-Cystein (NAC), một hợp chất chống oxy hoá và phân giải chất nhầy được sử dụng rộng rãi trong bệnh phổi, cũng có ích về mặt khả năng sinh sản. Đặc biệt NAC cải thiện sự rụng trứng và tỷ lệ mang thai bên cạnh việc điều trị tiêu chuẩn với clomiphen citrat (CC) trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi kiểm soát bằng giả dược ở 180 bệnh nhân vô sinh do đa nang buồng trứng.
Tác dụng của công thức Proxeed Women trên quá trình rụng trứng đã được đánh giá trong 1 nghiên cứu tiền lâm sàng được tiến hành trên mô hình ở chuột.
Trong nghiên cứu này, tác giả so sánh số lượng trứng mỗi chuột cái được điều trị với sản phẩm Proxeed Women với kết quả ở nhóm động vật kiểm soát.
Kết quả sơ bộ của nghiên cứu cho thấy 1 sự tăng rõ rệt theo thống kê (p<0,01) trong số lượng trứng/mỗi chuột cái trong nhóm dùng sản phẩm Proxeed Women so vớ nhóm kiểm soát. Phù hợp với khả năng hỗ trợ sự thụ thai ở phụ nữ của Proxeed Women, kết quả ban đầu này cho thấy hiệu quả của sản phẩm Proxeed Women trong việc làm tăng rụng trứng ở mô hình động vật có vú. (Virmani 2014).
L-Arginin là 1 Axit amin đã các nghiên cứu cho thấy làm tăng đáp ứng buồng trứng, khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, và tỷ lệ mang thai ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm được bổ sung L-Arginin. Nghiên cứu của Bataglia và các đồng nghiệp đã đánh trước và ngẫu nhiên vai trò của L-Arginin trong việc cải thiện dòng chảy Doppler của nang và tử cung và trong việc cải thiện đáp ứng buồng trứng đối với godanotropin ở những phụ nữ đáp ứng chậm. (Bataglia 1999).
Kẽm là 1 vi chất dinh dưỡng có nhiều trong thịt và hải sản. Kẽm hoạt động như 1 cofactor cho hơn 80 metalloenzym liên quan đến sự sao chép ADN và sự tổng hợp protein. Bởi vì sự sao chép ADN là phần chủ yếu của sự phát triển tế bào mầm, kẽm dường như quan trọng đối với sự tái bản. Hơn nữa, các protein có liên quan đến kẽm có tham gia vào sự diễn giải gien của các thụ thể nội tiết tố steroid, và kẽm cũng có những đặc tính chống oxy hoá và chống hoại tử tế bào. (Ebisch 2007). Kẽm cũng cho thấy có tác dụng tích cực trên đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp trị liệu gonadotropin ở bênh nhân thụ tinh trong ống nghiệm. (Dickerson 2011).
Selen là yếu tố vi lượng thiết quan trọng đối với sức khoẻ và sinh học ở người. Càng ngày càng có những bằng chứng đề nghị rằng khoáng chất này đóng 1 vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng bình thường và sự sao chép ở người và động vật, và sự bổ sung selen hiện nay được đề nghị như 1 phần trong chính sách y tế công cộng ở những khu vực địa lý có sự thiếu hụt selen nghiêm trọng trong đất. (Mistry 2012).
Sự thiếu hụt như được đánh giá qua chế độ ăn uống và / hoặc nồng độ trong huyết thanh đã được xác định ở những người cư trú ở những vùng địa lý đáng lưu ý về hàm lượng thấp trong đất, như những vùng núi lửa.
Sắt và Đồng đều là vi chất thiết yếu. Bởi vì chúng có thể vừa nhận và cho electron, chúng là trung tâm của nhiều phản ứng hoá học phụ thuộc năng lượng. (Gambling 2011)
Bệnh thiếu máu trước khi thụ thai, đặc biệt thiếu máu do thiếu hụt sắt, được thấy là có liên quan đến giảm sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh và tăng nguy cơ của những kết quả mang thai có hại. Một cách hợp lý, có thể cho rằng bệnh thiếu máu trước khi thụ thai có tác động được lập trên sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh bằng cách ảnh hưởng đến sự tổng hợp nội tiết tố hoặc sự thiếu máu nhẹ trước khi có thai có thể trở nên thiếu máu nặng trong thai kỳ dẫn đến sự thiếu tăng trưởng đã được xác nhận. (Celin 2010).
Folat thuộc nhóm Vitamin B và liên quan đến 1 số lượng lớn các quá trình sinh hoá, đặc biệt trong chuyển hoá homocystein. Sự thiếu hụt Folat do chế độ ăn uống hay được xác định do di truyền sẽ dẫn đến nồng độ homocystein trong máu thấp, điều này có liên quan đến các bệnh lý khác nhau. Có 1 số rối loạn chức năng liên quan đến việc thiếu hụt Folat, mà trên tổng thể, dẫn đến rối loạn chức năng tế bào và sự hoại tử tế bào. (Forges 2007).
Vitamin A là 1 dưỡng chất thiết yếu cần thiết cho việc duy trì sức khoẻ của mắt và tầm nhìn, sự tăng trưởng, chức năng miễn dịch, và sự sinh tồn. (WHO 2002). Tổng cộng, khoảng 0,8 triệu (1,4%) ca tử vong trên toàn thế giới là do thiếu hụt vitamin A, 1,1% nam giới và 1,7% phụ nữ và trên 4-6% trong tất cả loại bệnh ở châu Phi được đánh giá là do kết quả của việc thiếu hụt vitamin A.
Vitamin A đã được chứng minh là thiết yếu đối với tầm nhìn, sự tăng trưởng, sự sinh sản, và sự duy trì các biểu mô khác biệt và sự bài tiết chất nhầy. (Hemken, 1982). Bên cạnh những vấn đề về mắt, các kết quả khác có khả năng liên quan đến việc thiếu hụt vitamin A là sự hư thai, cân nặng trẻ sơ sinh thấp, sinh non và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. (WHO 2002).
Vitamin B5 cũng được gọi là axít pantothenic, là 1 trong 8 vitamin nhóm B. Tất cả các vitamin nhóm B giúp cơ thể chuyển thức ăn (Carbohydrate) thành năng lượng (Glucose). Các vitamin nhóm B này, thường được gọi là Vitamin B complex, cũng giúp cơ thể sử dụng các chất béo và protein.
Vì vậy, tình trạng Vitamin B6 thấp làm giảm khả năng thụ thai và góp phần vào nguy cơ sẩy thai sớm của nhóm dân số này. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự quan trọng tiềm tàng của tình trạng vi chất dinh dưỡng ở thời điểm thụ thai trên kết quả mang thai.
Vitamin B12 cần thiết cho sự hoạt hoá Axit Folic. Cùng với Axit Folic, nó cần thiết cho sự tạo ADN và mô hệ thần kinh. Nó cũng là chất chống oxy hoá tự nhiên và cùng với Vitamin B6 và Axit folic, nó làm giảm nồng độ homocystein cao. (Forges 2007, Cetn 2010).
Vitamin C và vitamin E là những hợp chất có khả năng quyết định, thu dọn hay ngăn chặn sự hình thành các dạng oxy phản ứng (ROS). Các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên động vật cho thấy rằng áp lực oxy hoá có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và sự hư thai sớm theo nhiều đường khác nhau. (Ruder 2008).
Cuối cùng, vitamin C và vitamin E cũng hiện diện ở các nồng độ khá cao trong thể vàng là nơi chúng có thể đóng 1 vai trò quan trọng trong viêc thu dọn các ROS.
Có bằng chứng rằng bên cạnh các nội tiết tố steroid sinh dục, là những chất điều tiết cổ điển của quá trình sinh sản ở người, Vitamin D cũng điều chỉnh các quá trình sinh sản ở phụ nữ và nam giới. (Lerchbaum 2011)
Các ảnh hưởng chính của tnh trạng Vitamin D ở những phụ nữ khoẻ mạnh và trong các trường hợp ảnh hưởng đến quá trình sinh sản ở phụ nữ được mô tả trong hình bên dưới.
Sau khi xem xét nhiều tác dụng phụ của sự thiếu hụt vitamin D trên các khía cạnh sức khoẻ khác nhau, việc bổ sung vitamin D để có được tình trạng vitamin D đủ là rất quan trọng.