KHẢO SÁT TOÀN CẦU CỦA CÁC CHUYÊN GIA SINH SẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH CỦA VIỆC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG ĐỐI VỚI TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH OXY HÓA VÀ VIỆC SỬ DỤNG CHẤT CHỐNG OXY HÓA TRONG ĐIỀU TRỊ VÔ SINH NAM
Việc sử dụng chất chống oxy hóa là thực hành lâm sàng phổ biến trong quản lý bệnh nhân vô sinh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa thiết lập được những hướng dẫn cần thiết bởi các Hiệp hội, các chuyên gia điều trị đối với việc sử dụng các chất chống oxy hóa cho điều trị vô sinh nam.
Sử dụng khảo sát trực tuyến, nghiên cứu này nhằm đánh giá các mô hình điều trị của các chuyên gia sinh sản để xác định lợi ích trên lâm sàng của việc kiểm tra quá trình tác động của oxy hoá và các chất chống oxy hóa trong điều trị vô sinh nam.
Câu trả lời được thu thập từ 1.327 người tham gia, đại diện cho 6 châu lục, cho thấy tỷ lệ người tham gia lớn nhất đến từ Châu Á (46,8%). Đa số người tham gia là bác sĩ (59,6%), 61,3% có hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điều trị vô sinh nam. Khoảng 2/3 là bác sĩ lâm sàng (65,7%) tham gia cuộc khảo sát này không yêu cầu bất kỳ xét nghiệm chẩn đoán OS nào. Một loạt các chất chống oxy hóa và thực phẩm chức năng đã được kê đơn, và các bằng chứng khoa học hầu hết được coi là khiêm tốn để hỗ trợ việc sử dụng chúng trên lâm sàng. Kết quả không bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, nguồn gốc địa lý, kinh nghiệm hoặc đào tạo về vô sinh nam của bác sĩ. Nghiên cứu này là cuộc khảo sát trực tuyến lớn nhất được thực hiện cho đến nay về chủ đề này và chứng minh 1. Tầm quan trọng của phương pháp điều trị này trên toàn thế giới 2. Việc sử dụng phổ biến các chất chống oxy hóa để điều trị vô sinh nam. Cuối cùng, sự cần thiết của các hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng từ các hiệp hội nghề nghiệp được nhấn mạnh.
Tỷ lệ vô sinh nam đã tăng trong vài thập kỷ qua từ 20% lên 70% trên toàn thế giới. Ảnh hưởng của nam giới đến tình trạng không có thai của cặp đôi: ghi nhận 20%-30% hoàn toàn do nam giới và 50% nam giới góp phần gây ra
tình trạng vô sinh của cặp đôi.
Các nguyên nhân của vô sinh nam rất đa dạng, ngoài các lí do di truyền, các nguyên nhân phổ biến khác như rôi loạn nội tiết, ảnh hưởng của thuốc, bệnh ác tính, bức xạ, tiếp xúc với hóa trị, các yếu tố môi trường và lối sống.
Mặc dù có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn, tỷ lệ lớn các trường hợp vô sinh nam vẫn là Vô sinh nam không giải thích được (UMI) và Vô sinh nam vô căn (IMI) khi các yếu tố về phía nữ đã được kiểm soát.
Stress oxy hóa (OS) xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa các loại oxy phản ứng (ROS) và chất chống oxy hóa (AOX) dẫn đến sự phân mảnh DNA của tinh trùng (SDF) và bất thường về tinh dịch. Tác động của OS đến vô sinh nam được chứng minh bởi mức độ bất thường của chỉ số oxy hóa – khử (ORP) lên đến 80% nam giới có IMI, dẫn đến tình trạng vô sinh do stress oxy hóa ở nam giới (MOSI). Chỉ số OS cao có thể gây tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản thông qua nhiều cách khác nhau. OS có thể tạo ra sự hình thành các sản phẩm phụ gây đột biến gen trong tế bào mầm và tinh trùng, tác động tiêu cực đến quá trình sinh tinh, các thông số tinh dịch, chất lượng tinh dịch, thụ tinh, mang thai và sức khỏe của thế hệ con cháu. Kiểm tra stress oxy hóa là cần thiết để cung cấp đầy đủ thông tin cho quá trình đánh giá lâm sàng khả năng vô sinh ở nam giới.
SỬ DỤNG CHẤT CHỐNG OXY HÓA ĐỂ ĐIỀU TRỊ VÔ SINH NAM:
Stress oxy hóa là một nguyên nhân, cơ chế nổi bật của vô sinh nam, nên việc sử dụng các chất chống oxy hóa (AOX) để giảm ROS là một lựa chọn điều trị quan trọng để cải thiện các thông số tinh dịch và khả năng sinh sản. Nhờ sự phân phối đa dạng và rộng khắp, độ an toàn cao và chi phí thấp hơn so với phương pháp hỗ trợ sinh sản, AOX và các chất bổ sung là một điểm khởi đầu đơn giản cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn đang tìm cách gia tăng khả năng mang thai. AOX thường được sử dụng cho vô sinh nam bao gồm vitamin A, C và E, L- carnitines, N-acetyl cysteine, Co-enzyme Q10, cùng với các yếu tố hỗ trợ AOX quan trọng như kẽm, selen, axit folic. Ngoài các chất trên, hiện có rất nhiều các công thức AOX và thực phẩm chứa AOX tự nhiên được đăng ký trên thị trường. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra lợi ích của việc bổ sung AOX và công nhận rằng liệu pháp AOX uống có thể cải thiện các thông số tinh dịch và khả năng mang thai. Kê đơn sử dụng AOX trong quá trình điều trị vô sinh nam ngày càng phổ biến, tuy nhiên việc thiếu các hướng dẫn thực hành lâm sàng được các hiệp hội chuyên môn xác nhận đã hạn chế việc tiêu chuẩn hóa phác đồ điều trị. Hiện vẫn chưa có sự thống nhất về phác đồ, liều lượng hoặc thời gian điều trị AOX. Liều lượng và tính chất của AOX được kê đơn thay đổi theo từng khu vực, phụ thuộc vào các sản phẩm AOX hiện có và kinh nghiệm của các bác sĩ. Tương tự, thời gian điều trị cũng không thống nhất, thay đổi từ dưới 2 tháng đến trên 6 tháng.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT:
Thông qua cuộc khảo sát toàn diện với hơn 1000 chuyên gia sinh sản khắp thế giới, Chúng tôi đã đưa ra được tình hình xét nghiệm OS và kê đơn AOX trong điều trị vô sinh nam, dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của các chuyên gia trong lĩnh vực vô sinh.
KIỂM TRA STRESS OXY HÓA:
Khoảng 2/3 là bác sĩ lâm sàng (65,7%) tham gia cuộc khảo sát này không yêu cầu bất kỳ xét nghiệm chẩn đoán OS nào. Phân mảnh DNA của tinh trùng là xét nghiệm vô sinh phổ biến nhất ngoài phân tích tinh dịch được chỉ định để nghiên cứu các rối loạn chức năng liên quan đến stress oxy hóa (53,4%). OS chủ yếu được kiểm tra khi có các yếu tố nguy cơ về lối sống (24,6%) hoặc bất thường về tinh trùng (16,3%).
CHỈ ĐỊNH SỬ DỤNG LIỆU PHÁP CHỐNG OXY HÓA:
43.7% cho sử dụng liệu pháp chống oxy hóa thường xuyên và 41.9% chỉ cho sử dụng AOX cho nhóm bệnh nhân cụ thể. Đặc biệt, trong số các bênh nhân không làm kiểm tra stress oxy hóa, 79% người bệnh được ghi nhận đã tiếp nhận liệu pháp chống oxy hóa trước đó Thời gian điều trị bằng liệu pháp chống oxy hóa được phần lớn các bác sĩ khuyến nghị sử dụng từ 03 đến 06 tháng để đạt được hiệu quả tốt nhất.
SẢN PHẨM CHỐNG OXY HÓA KHUYÊN DÙNG:
Dựa theo chứng minh lâm sàng (69%) và kinh nghiệm điều trị (59%), các chuyên gia hàng đầu về sinh sản đã khuyến nghị sử dụng các chất chống oxy hóa nên dùng và sản phẩm điều trị uy tín hiện hành.
Top 05 loại chất chống oxy hóa được khuyến nghị bao gồm Kẽm, Vitamin E, Vitamin C, Co-enzyme Q10, L-Carnitine đứng ở vị trí thứ 3 với 67.9% khuyên dùng.
Proxeed Plus – sản phẩm của Alfasigma tự hào là sản phẩm chất lượng số 1 thế giới được các chuyên gia sinh sản hàng đầu khuyên dùng. Sản phẩm là một hợp chất phối hợp các chất chống oxy hoá cao được các chuyên gia về sinh sản lựa chọn là top các chất chống ô xy hoá trong điều trị vô sinh nam giới bao gồm Kẽm, L-carnitine, Vitamin E, Coenzym Q10, Vitamin C.
Tác dụng lâm sàng của các chất có trong Proxeed Plus
Các thành phần trong Proxeed Plus có cơ sở nghiên cứu lâm sàng rộng rãi chứng minh được việc cải thiện khả năng vận động của tinh trùng, mật độ và hình thái tinh trùng ở nhóm đàn ông có chỉ số tinh dịch kém. Ngoài ra, Proxeed Plus chứa các thành phần được chứng minh làm giảm các mức của các gốc tư do mà các gốc này có ảnh hưởng tiêu cực đến tinh trùng. Proxeed Plus là sản phẩm dinh dưỡng bổ sung độc nhất với các thành phần đã chứng minh hiệu quả trên nghiên cứu mù đôi, giả dược có kiểm sóat được đăng trên các tạp chí y học nổi tiếng. Các nghiên cứu đã trình bày một cách xuyên suốt những tương quan tích cực mạnh mẽ giữa chất lượng tinh trùng và tỉ lệ mang thai. Điều này cho phép người ta nghĩ rằng sự cải thiện bất cứ yếu tố nào của chất lượng tinh trùng chẳng hạn như số lượng, mật độ khả năng vận động và hình thái sẽ giúp gia tăng khả năng thụ thai. Bạn hãy sử dụng Proxeed Plus – đóng góp cho sức khỏe sinh sản của bạn bằng dinh dưỡng bổ sung hàng ngày, một sản phẩm số 1 được khuyên dùng để tăng cường chất lượng tinh trùng.
L-Carnitine:
Các thành phần chính của Proxeed Plus, L-carnitin và Acetyl-L-carnitin, đã cho thấy trong nhiều thử nghiệm lâm sàng có hiệu quả trong việc hỗ trợ chất lượng tinh trùng qua việc làm tăng số lượng, tinh chuyển động, và chuyển động tiến tới tuyến tính của tinh trùng.
Việc phân biệt giữa nồng độ và số lượng tinh trùng là quan trọng. Các nghiên cứu này được thực hiện trên các nam giới vô sinh, với các thông số về tinh dịch được đánh giá cả trước và sau khi hoàn thành việc bổ sung với L-carnitn hoặc acetyl-L-carnitn.
Hầu hết các liều cho những bệnh nhân nghiên cứu này là 3 gam mỗi ngày. Vitali và các cộng sự đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam 1 ngày dùng trong 3 tháng ở 47 nam giới vô sinh đã được chẩn đoán bị yếu tinh trùng tự phát trong thời gian ít nhất 2 năm. Các kết quả của nghiên cứu này có thể xem trong Bảng 4.1.
Về cơ bản, sự bổ sung L-carnitin có tác dụng đang kể trong việc làm tăng tất cả các thông số được đánh giá: số lượng tinh trùng, tinh chuyển động, và chuyển động tuyến tinh nhanh. L-carnitin được dung nạp rất tốt.
Một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (Costa, 1994) đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam mỗi ngày trong 4 tháng ở 100 bệnh nhân nam bị yếu tinh trùng tự phát. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định tác dụng của việc bổ sung dài hạn L-carnitin trên tinh chuyển động của tinh trùng. Các kết quả của nghiên cứu này được ghi trong Bảng 4.2. Sự phân tích dữ liệu được thực hiện ở thời điểm bắt đầu điều trị (T0), sau 2 tháng (T + 2), và 4 tháng điều trị (T + 4), và 2 tháng sau khi kết thúc điều trị (T + 6). Kết quả lại cho thấy rõ ràng hiệu quả của L-carnitin trên các thông số về tính chuyển động của tinh trùng.
Acetyl L-Carnitin
Một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (Costa, 1994) đã đánh giá hiệu quả của L-carnitin dùng theo đường uống ở liều 3 gam mỗi ngày trong 4 tháng ở 100 bệnh nhân nam bị yếu tinh trùng tự phát. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định tác dụng của việc bổ sung dài hạn L-carnitin trên tinh chuyển động của tinh trùng. Các kết quả của nghiên cứu này được ghi trong Bảng 4.2. Sự phân tích dữ liệu được thực hiện ở thời điểm bắt đầu điều trị (T0), sau 2 tháng (T + 2), và 4 tháng điều trị (T + 4), và 2 tháng sau khi kết thúc điều trị (T + 6). Kết quả lại cho thấy rõ ràng hiệu quả của L-carnitin trên các thông số về tính chuyển động của tinh trùng.
Bởi vì Acetyl-L-Carnitin là dạng nổi bật của L-Carnitin trong tinh trùng, Moncada và các cộng sự (1992) đã thực hiện một nghiên cứu để điều tra hiệu quả lâm sàng của một mình Acetyl-L-Carnitin trên chất lượng tinh trùng của 20 bệnh nhân, tất cả đã được chẩn đoán trước đây về tình trạng ít tinh trùng tự phát theo tiêu chuẩn của WHO. Người ta đã thấy có một sự tăng đáng kể ở giá trị trung bình về phần trăm tinh trùng có chuyển động tiến tới tuyến tính nhanh so với vạch chuẩn sau 2 tháng bổ sung.
Hơn nữa, Acetyl-L-Carnitin cải thiện chuyển động tến tới của tinh trùng ở 75% bệnh nhân và sự tăng này được duy trì kéo dài ở 12/20 bệnh nhân, với giá trị tăng trung bình gấp 2,7 lần. 35% bệnh nhân có đối tác nữ đạt được sự mang thai. Sau khi ngưng dùng Acetyl-L-carnitin, các thông số tinh dịch trở về mức độ ở vạch chuẩn. 35% bệnh nhân có đối tác nữ đạt được sự mang thai. Sau khi ngưng dùng Acetyl-L-Carnitin, các thông số tinh dịch trở về mức độ ở vạch chuẩn.
Một cách tổng quát, cả L-Carnitin và Acetyl-L-Carnitin dùng theo đường uống đã cho thấy khả năng cải thiện chất lượng tinh trùng ở các khía cạnh về tính chuyển động, chuyển động tiến tới tuyến tính, và số lượng tinh trùng. Ngoài ra, mặc dù tất cả những bệnh nhân nam đã được chẩn đoán với tiền sử vô sinh tự phát khi bắt đầu thử nghiệm lâm sàng, nhiều đối tác của họ đã có thể đạt được sự mang thai.
Nghiên cứu của Cavallini
Mặt khác, trong một nghiên cứu thứ 3, Cavallini và các cộng sự đã đánh giá 325 nam giới khỏe mạnh bị ít tinh trùng tự phát hoặc do giãn mạch tinh hoàn được lựa chọn ngẫu nhiên vào một sự điều trị 6 tháng cộng với 3 tháng theo dõi ở 3 nhóm khác nhau.
- Nhóm đầu tiên sử dụng 1 viên tinh bột 2 lần/ ngày và một viên thuốc đặt glycerin mỗi 4 ngày.
- Nhóm thứ 2 dùng L-carnitin theo đường uống 2 g/ngày, acetyl-L-carnitin 500 mg theo đường uống 2 lần/ngày và một viên thuốc đặt glycerin mỗi 4 ngày.
- Nhóm thứ 3 sử dụng L-carnitin/acetyl-L-carnitin và 1 viên thuốc đặt cinnoxicam 30-mg mỗi 4 ngày.
Sau 3 và 6 tháng, nhóm 1 cho thấy không có dự thay đổi về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng, trong khi nhóm 2 và 3 tăng đáng kể về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng ở cả 3 tháng và 6 tháng, không thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các dữ liệu của 3 và 6 tháng trong mỗi nhóm điều trị.
(Bảng 4.3) Trong thời gian điều trị, tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng của nhóm 3 cao rõ rệt hơn các giá trị tương ứng của nhóm 2. Ba tháng sau khi ngưng thuốc, các dữ liệu về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng trở về vạch chuẩn.
(Bảng 4.3) Trong thời gian điều trị, tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng của nhóm 3 cao rõ rệt hơn các giá trị tương ứng của nhóm 2. Ba tháng sau khi ngưng thuốc, các dữ liệu về tính chuyển động, hình thái học và nồng độ tinh trùng trở về vạch chuẩn.
Tỷ lệ phần trăm tích lũy các trường hợp mang thai tự nhiên trước, trong khi, và sau điều trị được trình bày trong Bảng 4.1. Kết thúc thời gian theo dõi, nhóm 2 có tỷ lệ mang thai cao hơn rõ rệt so với nhóm 1 (p<0.,1), và nhóm 3 có tỷ lệ mang thai tăng đáng kể so với nhóm 2 (p<0,05). Tỷ lệ mang thai mỗi hai tháng là 0,3% ở nhóm 1, 3,6% ở nhóm 2, ở 6,3% ở nhóm 3.
Fructose
Trong một thử nghiệm trong ống nghiệm trên tinh trùng của người (Williams A.C., 2001) việc ủ với 5,56 mmol L-1 dẫn đến một sự tăng đáng kể sự sản xuất ATP và tăng phần trăm tinh trùng chuyển động, với sự cải thiện rõ rệt trong tốc độ của quá trình, phần trăm tinh trùng chuyển động nhanh và trong tốc độ của chuyển động tiến về phía trước.
Tác dụng được duy trì kéo dài 1 giờ và sau khi ủ qua đêm thì vẫn còn hơi cao hơn mẫu kiểm soát, dù không đáng kể.
Các bệnh nhân được bổ sung Proxeed Plus một lần một ngày trong 4 tháng. Các mục tiêu chính là tỷ lệ chuyển động tiến tới và các dạng bình thường về mặt hình thái học của tinh trùng. Các mục tiêu phụ là giá trị tăng trung bình về mật độ tinh trùng và tỷ lệ mang thai trong thời gian bổ sung. Trong số 114 bệnh nhân đăng ký, 96 người đã hoàn thành thời gian nghiên cứu.
Ở vạch chuẩn, chuyển động tiến tới trung bình là 18,3 ± 3,8 và được cải thiện lên 42,1 ± 5,5 sau bổ sung (p < 0,05 – Hình 4.4).
Tỷ lệ các dạng bình thường về mặt hình thái học tăng từ 32,8% lên 38,4%, cho dù là sự tăng này không đáng kể về mặt thống kê. Trong thời gian điều trị, 17 bệnh nhân (15%) đã đạt được sự mang thai tự phát.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng việc bổ sung carnitin, fructose và nhiều chất khác có thể góp phần vào quá trình điều tiết và tối ưu hóa chức năng tinh trùng. Kết quả của nghiên cứu mở, triển vọng này cho thấy rằng xu hướng chuyển hóa với Proxeed Plus thực sự có thể hữu ích trong kiểm soát vô sinh ở nam giới.
Kẽm
Trong một thử nghiệm, tác dụng của việc bổ sung kẽm trên testosterone, dihydrotestosteron, và số lượng tinh trùng đã được nghiên cứu. 37 bệnh nhân bị vô sinh tự phát với thời gian hơn 5 năm và có số lượng tinh trùng giảm được cho sử dụng kẽm nguyên tố 24 mg từ sulphat kẽm trong 45-50 ngày Kết quả rất đáng chú ý ở 22 đối tượng có nồng độ testosteron ban đầu thấp: một sự tăng đáng kể trong nồng độ testosteron và số lượng tinh trùng (từ 8 đến 20 triệu/ml) đã được ghi nhận, cùng với 9 trường hợp có kết quả mang thai.
Một nghiên cứu nhỏ hơn đã cho thấy rằng sự bổ sung kẽm trong 4 tháng đã làm tăng đáng kể nồng độ kẽm trong tinh dịch, và cùng lúc, tăng tính chuyển động và số lượng tinh trùng và số lượng tế bào tinh trùng bình thường, mặc dù nó không làm thay đổi nồng độ kẽm trong huyết tương (Sinclair, 2000). Các phát hiện này cũng được thấy khi bổ sung kết hợp kẽm và folat (Wong, 2000).
Vitamin C
Tác dụng tích cực của vitamin C trên khả năng sinh sản của nam giới, đặc biệt ở những người hút thuốc, cũng đã được biết rất rõ. Trong một nghiên cứu ở những người hút thuốc nhiều, 75 nam giới được chia thành 3 nhóm bổ sung; một nhóm được cho dùng giả dược, các nhóm khác được cho sử dụng 200 mg hay 1000 mg axít ascorbic.
Trong khi nhóm dùng giả dược không thấy có sự cải thiện nào, nhóm axít ascorbic cho thấy có sự cải thiện rõ rệt về chất lượng tinh trùng, với sự cải thiện nhiều nhất xảy ra ở nhóm 1000 mg. Trong một nghiên cứu khác, việc bổ sung vitamin C (200 đến 1000 mg/ngày trong 2 tháng) làm tăng số lượng tinh trùng từ 112 – 140%, dẫn đến mang thai thành công đối với tất cả các bệnh nhân được điều trị (Sinclair, 2000).
Một thử nghiệm lâm sàng trên 69 nam giới vô sinh người Scotland đã đánh giá tác dụng của việc bổ sung selen trên các thông số của tinh dịch. Khi kết thúc thử nghiệm, cả 2 nhóm điều trị với selen đã có những cải thiện đáng kể về chuyển động tinh trùng, mặc dù mật độ tinh trùng không bị ảnh hưởng (Sinclair, 2000).
Coenzym Q10
Tác dụng của hoạt động chống oxy hóa của Coenzym Q10 trên các thông số tinh dịch, dữ liệu về nội tiết tố sinh dục và chức năng tinh trùng gần đây đã được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên trên 212 nam giới vô sinh do yếu và ít tinh trùng tự phát, các bệnh nhân này được chỉ định ngẫu nhiên để sử dụng 300 mg coenzym Q10 theo đường uống hàng ngày (106 ở nhóm 1) hoặc một mẫu giả dược tương tự (106 ở nhóm 2) trong thời gian 26 tuần, tiếp theo đó là giai đoạn không điều trị 30 tuần.
Đã có bằng chứng cho thấy sự cải thiện đáng kể về mật độ và tính chuyển động tinh trùng khi điều trị với coenzym Q10 (p=0,01 cho mỗi yếu tố). Sự đánh giá về hình thái học đã cho thấy sự tăng về phần trăm tế bào tinh trùng bình thường ở nhóm Coenzym Q10 (p = 0.07).
Nhóm Coenzym Q10 có sự giảm đáng kể về nồng độ nội tết tố kích thích nang (FSH) và nội tiết tố thể vàng trong huyết thanh ở giai đoạn điều trị 26 tuần (p = 0,03 cho mỗi yếu tố). Ở cuối giai đoạn điều trị, phản ứng acrosom trung bình đã tăng từ 14% và 15% đến 31% và 16% ở các nhóm Coenzym Q10 giả dược tương ứng (p = 0,01) (Hình 4.2) (Safarinejad, 2009).
Vitamin B12
Cuối cùng, việc bổ sung Vitamin B12 đã được chứng minh có ảnh hưởng lớn trên chất lượng tinh dịch. Trong một nghiên cứu lâm sàng, vitamin B12 , 1.500 mcg/ngày được cho 26 nam giới vô sinh trong thời gian 4-24 tuần. Sự phân tích tinh trùng được thực hiện 8 tuần sau khi bắt đầu nghiên cứu. Nồng độ tinh trùng tăng trong 38,4% trường hợp và tổng số lượng tinh trùng tăng ở 53,8% nam giới. Tính chuyển động của tinh trùng tăng ở 50% người tham gia (Sinclair, 2000).
Một nghiên cứu xa hơn hỗ trợ bằng chứng này cho thấy một sự tương quan rõ rệt giữa nồng độ vitamin B12 trong tinh dịch và nồng độ tnh trùng ở 73 nam giới thuộc các cặp đôi thực hiện các quá trình thụ tinh có hỗ trợ (Hình 4.3) (Boxmeer, 2007).